(P.TS&TT - Văn Lang, 11/4/2019) – Nằm trong khuôn khổ Hội thảo khoa học quốc tế “Trường Đại học Văn Lang hội nhập quốc tế”, Hội thảo của tiểu ban Môi trường – Kỹ thuật đã diễn ra vào ngày 10/4/2019 với chủ đề “Thiết kế bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu”.
Nguy cơ biến đổi khí hậu dẫn đến nước biển dâng và thay đổi môi trường sinh thái đang là mối lo chung của thế giới. Đây cũng là chủ đề hội thảo khoa học quốc tế của tiểu ban Môi trường – Kỹ thuật Trường Đại học Văn Lang thu hút 11 chuyên gia đến từ Hà Lan, Singapore, Nhật Bản, Thái Lan, Đức, Hồng Kông và nhiều chuyên gia của Việt Nam. Hội thảo đã phác thảo một bức tranh đa chiều, đồng thời đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
• Chủ tọa: GS. TS. Tsunemi Watanabe (Trường ĐH Công nghệ Kochi, Nhật Bản).
• Địa điểm: Phòng 11.3 – Tòa nhà A, Cơ sở 3 của Trường ĐH Văn Lang.
Phân ban Kỹ thuật:
• Chủ tọa: GS. TS. Ngô Văn Nông (Trường ĐH Nagoya, Nhật Bản).
• Địa điểm: Phòng 11.5 – Tòa nhà A, Cơ sở 3 của Trường ĐH Văn Lang.
MỘT SỐ KẾT QUẢ ẤN TƯỢNG CỦA HỘI THẢO
• 25 bài viết của các chuyên gia Việt Nam, Đức, Nhật Bản, Hồng Kông, Hà Lan, Thái Lan đăng trong Tạp chí Xây dựng, số tháng 4/2019.
• 07 vấn đề thảo luận: Cấp nước trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu; Chất thải nhựa; Vi nhựa; Năng lượng tái tạo; BIM trong thiết kế bền vững; Giảm thiểu và giám sát ô nhiễm không khí; Động lực nội tại.
• 07 biên bản hợp tác được ký kết ngay trong phiên thảo luận buổi chiều.
11 chuyên gia nước ngoài đến từ Nhật Bản, Hà Lan, Singapore, Thái Lan, Đức, Hồng Kông; 22 đại diện của 18 công ty, 29 đại diện đến từ 24 trường đại học, viện nghiên cứu và cơ quan quản lý của Việt Nam, hơn 50 sinh viên ngành Công nghệ Kỹ thuật Môi trường và ngành Kỹ thuật Nhiệt… tham gia Hội thảo khoa học, cho thấy uy tín của Trường Đại học Văn Lang trong lĩnh vực Môi trường - Kỹ thuật.
2. GS.TS. Kujawa Katarzyna Roeleveld (Wageningen University, Hà Lan): Resource rovery oriented urban water management.
3. GS.TS. Fujii Shigeo (Kyoto University, Nhật Bản): Comparison of water use practices at peri-urban communites in Southeast Asian countries.
4. PGS.TS. Lê Thị Kim Oanh (Trường Đại học Văn Lang): Characteristics of immigrants in HCMC and health risk from water use under the context of climate change impact.
5. GS.TS. Tsunemi Watanabe (Kochi University of Technology, Nhật Bản): Institutional analysis for sustainable development of local constructors in Japan.
6. PGS.TS. Judith Van Leeuwen (Wageningen University, Hà Lan): Plastic pollution and governance and sustainable design.
7. PGS.TS. Trần Thị Mỹ Diệu (Trường Đại học Văn Lang): Situations of plastic in Vietnam.
8. GS.TS. Sandhya Babel (SIIT, Thamasat University, Thái Lan): Micro-plastic contamination in fresh water enviroment: A case study in the Chao Phray River, Bangkok.
9. GS.TS. Ngo Van Nong (Nagoya University, Nhật Bản): Thermo – electrics as a renewable energy technology for waste heat recovery and smart thermal management.
10. TS. Lê Hùng Tiến (Trường Đại học Văn Lang): Design optimization using building information modeling (BIM) for sustainable design.
11. Ông Ger Groeneveld (Hà Lan): Integrated, cross-border approach for raducing GHF emissions.
12. TS. Đỗ Trí Nhựt (Trường Đại học Văn Lang): Technical evaluation of the efficient use of solar water heater.
13. GS. Huub Rijnaarts (Wageningen University, Hà Lan): Urban harvest as a princilple to adapt water infrastructure urbanizing delta to climate change.
14. ThS. NCS. Lê Minh Trường (Trường Đại học Văn Lang): Rain water harvest: A case of export processing zone and industrial zone in Southern Vietnam.
15. GS.TS. Kim Irvine (Nanyang University, Singapore): Environmental systems modelling for urban planners: Considerations in promoting green urban design.
16. TS. Hồ Quốc Bằng (Trung tâm Công nghệ Môi trường, Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại học Quốc gia Tp. HCM): Air emission inventory and modelling to develop clean air action plan and climate change mitigation for HCM city.
Trong số 16 tham luận của Hội thảo, có 7 chuyên gia báo cáo về tài nguyên nước. Điều này cho thấy vai trò đặc biệt của nước trong đời sống sinh tồn và phát triển của con người; đồng thời xoáy vào thực trạng nguồn tài nguyên nước đang chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu.
Tham luận của GS. Mukand S. Babel (AIT, Thái Lan), GS.TS. Fujii Shigeo (ĐH Kyoto, Nhật Bản), GS.TS. Kujawa Katarzyna Roeleveld (ĐH Wageningen, Hà Lan), GS.TS. Sandhya Babel (Viện SIIT, ĐH Thamasat, Thái Lan), GS. Huub Rijnaarts (ĐH Wageningen, Hà Lan), PGS.TS. Lê Thị Kim Oanh và ThS.NCS. Lê Minh Trường (Khoa Môi trường và Công nghệ Sinh học Trường ĐH Văn Lang) đã cung cấp nhiều thông tin bổ ích, đưa ra những giải pháp thiết thực trong việc phục hồi, quản lý tài nguyên này trên thế giới cũng như Việt Nam.
GS.TS. Mukand S. Babel trình bày tham luận "Cơ sở hạ tầng xanh: Cách tiếp cận bền vững để quản lý nước và thích ứng với biến đổi khí hậu" tại Trường Đại học Văn Lang (10/4/2019).
Trong tham luận mở đầu của phân ban Môi trường, GS.TS. Mukand S. Babel phác thảo tổng quan về các giải pháp truyền thống trong quản lý nguồn nước bằng bê tông hóa, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế. Tác giả gợi ý hướng thiết kế xanh - xu hướng được ưa chuộng vì những lợi ích trong bảo tồn sinh thái và làm đẹp cảnh quan đô thị.
GS.TS. Kujawa Katarzyna Roeleveld đề cập đến vấn đề thu hồi tài nguyên nước - định hướng quản lý nguồn nước đô thị, từ nguồn nước trong hộ gia đình cho đến các nguồn nước thải và nguồn nước cấp.
Liên quan trực tiếp đến Việt Nam, tham luận của GS.TS. Fujii Shigeo chỉ ra sự khác nhau về quá trình sử dụng nước của Việt Nam so với Campuchia và Thái Lan. Báo cáo viên bất ngờ cho thấy sự cải thiện về nhận thức khi xem xét chất lượng nguồn nước trước khi sử dụng ở Việt Nam và vấn đề chất lượng nguồn nước cấp vẫn chưa đảm bảo cho sức khỏe người sử dụng.
Cũng đề cập đến tài nguyên nước ở Việt Nam, cụ thể hơn là ở Tp.HCM, PGS.TS. Lê Thị Kim Oanh - Trưởng Khoa Môi trường và Công nghệ Sinh học Trường Đại học Văn Lang báo cáo tham luận "Đặc điểm của người nhập cư tại Tp.HCM và rủi ro sức khỏe do sử dụng nước trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu". Các giáo sư quốc tế đánh giá cao và khuyến khích tiếp tục phát triển nghiên cứu này.
Liên quan đến tài nguyên nước, tham luận của GS.TS. Kim Irvine Neil (Trường ĐH Nanyang, Singagpore) và GS.Huud Rijnaards (Trường ĐH Wagenigen, Hà Lan) gặp gỡ nhau ở ý tưởng thu hoạch nước mưa tại thành phố bằng các giải pháp hữu ích, khả năng ứng dụng cao. Các giải pháp kỹ thuật này có thể thực hiện ở Việt Nam. Hai giảng viên Khoa Môi trường & Công nghệ Sinh học Trường Đại học Văn Lang là ThS. NCS. Lê Minh Trường và ThS.NCS. Trần Thu Trang cũng đang làm luận án tiến sĩ về đề tài này do GS.Huud Rijnaards hướng dẫn.
Khi ô nhiễm nhựa trở thành một vấn nạn thế giới phải đương đầu thì những nghiên cứu của ba nhà khoa học nữ: PGS. TS. Trần Thị Mỹ Diệu (Hiệu trưởng Trường Đại học Văn Lang), PGS.TS. Judith van Leeuwen (Trường ĐH Wagenigen, Hà Lan) và GS.TS. Sanghya Babel (Viện SIIT, ĐH Thammasat, Thái Lan) thật sự có giá trị và ý nghĩa thực tiễn. Các chuyên gia trong và ngoài nước đều đánh giá cao những báo cáo này.
GS.TS. Sandhya Babel giới thiệu nội dung vi nhựa (micro-plastic) - một trong những vấn đề nóng của thế giới hiện nay, được coi như một thảm họa cho môi trường và sức khỏe. Giáo sư chia sẻ kinh nghiệm thực hiện nghiên cứu xác định ô nhiễm vi nhựa trên sông Chao Praya (Bangkok, Thái Lan). GS.TS. Sandhya Babel là đối tác của Khoa Môi trường và Công nghệ sinh học đang thực hiện nghiên cứu xác định ô nhiễm vi nhựa trên sông Sài Gòn, đặc biệt những đoạn sông được sử dụng làm nguồn nước cấp nhằm đánh giá nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
PGS.TS. Trần Thị Mỹ Diệu, PGS.TS. Judith Van Leeuwen báo cáo tham luận tại Hội thảo.
Tham luận của PGS.TS. Judith van Leeuwen giới thiệu các biện pháp kiểm soát ô nhiễm nhựa từ nguồn sử dụng và sản xuất, xem xét các chính sách từ việc cấm hoặc thay thế nhựa, mức độ chịu trách nhiêm của nhà sản xuất.
Tham luận về tình hình sử dụng nhựa ở Việt Nam của PGS.TS. Trần Thị Mỹ Diệu nhận được sự quan tâm của nhiều diễn giả. Báo cáo đã chỉ ra tình hình sử dụng bao nhựa, túi nilon ở Việt Nam đang ở mức báo động. Diễn giả cũng chỉ ra các giải pháp công nghệ trong sản xuất túi nhựa phân hủy sinh học thay thế cho túi nilon. Bài báo cáo là một trong những kết quả thu được từ công trình nghiên cứu quan trọng Khoa Môi trường và Công nghệ Sinh học Trường Đại học Văn Lang đã thực hiện.
Bên cạnh hai vấn đề tài nguyên nước và ô nhiễm nhựa, các vấn đề về Năng lượng tái tạo; BIM trong thiết kế bền vững; Giảm thiểu và giám sát ô nhiễm không khí; Động lực nội tại được thể hiện qua báo cáo của các diễn giả chứa đựng nhiều thông tin mới mẻ, thú vị, nhiều giải pháp khả thi.
Tham luận của GS.TS. Ngô Văn Nông (Trường ĐH Nagoya, Nhật Bản) tập trung giới thiệu công nghệ vật liệu nhiệt điện (Thermo - Electric Materials), dùng chuyển đổi sự chênh lệch nhiệt độ thành điện năng... Theo đánh giá của các chuyên gia, công nghệ này có nhiều triển vọng khi tận dụng các nguồn nhiệt thải để phát điện, có thể ứng dụng cho các thiết bị Internet vạn vật (IoT) để quản lý môi trường, quản lý thiết bị.
GS.TS. Tsunemi Watanabe (Trường ĐH Công nghệ Kochi, Nhật Bản) báo cáo tham luận "Phân tích thể chế để phát triển bền vững các nhà xây dựng địa phương tại Nhật Bản", khai thác ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xây dựng. Giáo sư cho thấy mức độ áp dụng của IoT (trí tuệ nhân tạo) vào các công trình xây dựng là một bước tiến mà Việt Nam cần học hỏi, đáp ứng xu hướng phát triển bền vững cho ngành công nghiệp xây dựng.
Liên quan đến vấn đề thiết kế bền vững, TS. Lê Hùng Tiến (Trưởng Khoa Kỹ thuật, Trường ĐH Văn Lang) báo cáo tham luận "Tối ưu hóa thiết kế bằng cách sử dụng mô hình thông tin xây dựng (BIM) để thiết kế bền vững", chỉ ra Thiết kế tối ưu dùng Mô hình thông tin công trình (BIM) - một ứng dụng Công nghệ thông tin vào kiến trúc, xây dựng và cơ điện... BIM giúp tối ưu chi phí cho toàn bộ vòng đời dự án từ thiết kế đến thi công và vận hành.
TS.Hồ Quốc Bằng (Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại học Quốc gia Tp.HCM) trình bày các cách thức thu thập, đo đạc và đánh giá ô nhiễm không khí tại Tp.HCM. Các kết quả rất hữu ích cho việc quy hoạch các khu đô thị hay khu công nghiệp tại Tp.HCM. TS. Hồ Quốc Bằng khá thích thú với bài báo cáo của TS. Lê Hùng Tiến, đã đặt câu hỏi và có những trao đổi sâu sau khi hội thảo kết thúc.
Các yếu tố kỹ thuật để tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm chi phí cũng được đề cập trong các tham luận của hội thảo, như "Phương pháp tích hợp, xuyên biên giới để phát ra khí thải GHF" (Mr. Ger Groeneveld, Hà Lan), "Đánh giá kỹ thuật sử dụng hiệu quả máy nước nóng năng lượng mặt trời" (TS. Đỗ Trí Nhựt, Khoa Kỹ thuật Trường ĐH Văn Lang),… Nghiên cứu của các công trình này sẽ mang lại rất nhiều cơ hội tận dụng tài nguyên và tiết kiệm chi phí, giảm thải ô nhiễm môi trường.
Trong phiên họp mở rộng vào buổi chiều, các chuyên gia đã cùng ngồi lại thảo luận, trao đổi ý tưởng của các dự án mỗi bên đang triển khai để cùng hợp tác. Ngoài xây dựng được mạng lưới phối hợp nghiên cứu, thành quả của Hội thảo còn là 07 biên bản ghi nhớ hợp tác trong hoạt động nghiên cứu và học thuật, trong đó có 04 biên bản hợp tác với Khoa Môi trường và Công nghệ sinh học Trường Đại học Văn Lang, 03 biên bản ký kết hợp tác với Khoa Kỹ thuật Trường Đại học Văn Lang.
2. Trường Đại học Văn Lang - School of Economics and Management – Kochi University of Technology: Áp dụng zero waste trong du lịch: Kết nối đối tượng người tàn tật.
3. Trường Đại học Văn Lang - Công ty Nam Hưng Phú: Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm sinh học để xử lý nước thải giàu nitơ.
4. Trường Đại học Văn Lang - Kochi University of Technology: Trao đổi sinh viên đại học;
5. Trường Đại học Văn Lang - Nagoya University – AIT: Dự án làm nước ngọt từ nước biển.
6. Trường Đại học Văn Lang - Nagoya University: Data Science application (A.I, IoT,...) for environmental management.
7. Trường Đại học Văn Lang - Nagoya University: Thermo-Electrics application for IoT.
Tổng kết Hội thảo khoa học "Thiết kế bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu", GS.TS. Kim Neil Irvine (Trường ĐH Nangyang, Singapore) đánh giá: “Hội thảo khoa học quốc tế được tổ chức với chất lượng tốt. Điều này là cần thiết để thúc đẩy hợp tác quốc tế trong kĩnh vực nghiên cứu, đồng thời cho thấy tiềm năng của Văn Lang, giúp kết nối Văn Lang với các đối tác hoặc các tổ chức khác thông qua đối tác. Các chủ đề thảo luận trong hội thảo phù hợp với xu hướng của thế giới”.
Nguyễn Liên tổng hợp
Hình ảnh: Anh Tình, Nguyễn Linh